Quan hệ giữa chức vụ Chủ tịch Quân ủy Trung ương với các chức vụ cao cấp Quân_ủy_Trung_ương_Trung_Quốc

Mao Trạch Đông từng tuyên bố: "Súng đẻ ra chính quyền" nên ở Trung Quốc, tướng lĩnh có tiếng nói mang sức nặng hơn các bộ trưởng và đại biểu quốc hội[cần dẫn nguồn]. Vì vậy, chức vụ cao cấp quan trọng nhất của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không phải là Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng (hoặc Tổng bí thư Đảng), Thủ tướng Quốc vụ viện mà là Chủ tịch Quân ủy Trung ương.

Trong thời kỳ trước năm 1949, khi chức vụ Chủ tịch quân ủy Trung ương được lập ra năm 1925, Trần Độc Tú giữ cả hai chức Tổng bí thư Đảng và Chủ tịch quân ủy Trung ương. Sau Hội nghị Tuân Nghĩa tháng 7 năm 1927, Trần Độc Tú bị hạ bệ, Chu Ân Lai là Bí thư trưởng, Cù Thu Bạch phụ trách trung ương (trong địch hậu), Mao Trạch Đông được cử làm Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Từ năm 1930 đến 1943, lần lượt Cù Thu Bạch, Vương Minh, Tần Bang Hiến (tức Bác Cổ), Trương Văn Thiên (tức Lạc Phủ) giữ chức vụ Tổng bí thư nhưng chức vụ Chủ tịch Quân ủy trung ương vẫn do Mao Trạch Đông liên tục nắm giữ. Đến năm 1943, tại Hội nghị Bộ Chính trị ngày 20 tháng 3 năm 1943 ở Diên An, các chức vụ Chủ tịch ủy ban Trung ương, Chủ tịch Bộ Chính trị, Chủ tịch Ban Bí thư được đặt ra và Mao Trạch Đông giữ tất cả các chức vụ này cùng với chức vụ Chủ tịch Quân ủy Trung ương cho đến năm 1965, bất chấp những sai lầm của ông trong thời kỳ "Đại nhảy vọt.

Tại Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng lần thứ 11 khóa 8 (tháng 8 năm 1966), chức vụ Chủ tịch Quân ủy Trung ương được trao cho Lâm Bưu, phó Chủ tịch Đảng. Năm 1971, Lâm Bưu làm phản và chạy trốn, bị rơi máy bay, chết ở Mông Cổ, Chu Ân Lai tạm quyền Chủ tịch quân ủy trung ương. Năm 1976, Mao Trạch Đông chết, bè lũ 4 tên bị đem ra xét xử. Hoa Quốc Phong được bầu là Chủ tịch Đảng nhưng Diệp Kiếm Anh được chỉ định là Chủ tịch quân ủy Trung ương. Năm 1978, Đặng Tiểu Bình được phục hồi và giữ chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Từ năm 1979 đến năm 1989, lần lượt Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương làm Tổng bí thư nhưng Đặng Tiểu Bình vẫn giữ chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Ông chỉ trao chức vụ này cho Giang Trạch Dân năm 1989, sau sự kiện Thiên An Môn. Năm 2002, Giang Trạch Dân thôi các chức vụ Tổng bí thư, Chủ tịch nước nhưng vẫn giữ chức vụ Chủ tịch Quân ủy Trung ương đến năm 2004 mới trao lại cho Hồ Cẩm Đào.

Liên quan

Quân đội nhân dân Việt Nam Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân chủng Phòng không – Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân khu 7, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân khu 1, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc Quân khu 5, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân khu 2, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân khu 9, Quân đội nhân dân Việt Nam Quần đảo Trường Sa

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Quân_ủy_Trung_ương_Trung_Quốc http://www.people.com.cn/GB/shehui/1060/2391834.ht... http://eng.mod.gov.cn/cmc/index.htm http://www.mod.gov.cn/big5/index.htm http://www.npc.gov.cn/wxzl/gongbao/2000-12/05/cont... http://www.npc.gov.cn/wxzl/wxzl/2000-12/06/content... http://www.npc.gov.cn/wxzl/wxzl/2000-12/06/content... http://www.sinodefence.com/organisation/command/cm... http://vietnamdefence.com/Home/quandoi/trungquoc/T... http://news.xinhuanet.com/english/2008-03/16/conte... http://news.xinhuanet.com/ziliao/2004-07/29/conten...